Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, các thế hệ người Việt Nam đã xây dựng, bồi đắp, hun đúc nên những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp. Kế thừa và phát huy những giá trị đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng về đạo đức. Người coi đạo đức cách mạng là gốc, là phẩm chất nền tảng của cán bộ, đảng viên.
Từ những khai mở của chủ nghĩa Mác – Lênin cùng với những giá trị tinh hoa của nhân loại, Người đã vận dụng và phát triển những triết lý về đạo đức cộng sản trở thành những những tư tưởng về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam. Tạp chí Xây dựng Đảng trân trọng gửi tới độc giả loạt bài viết 4 kỳ với tiêu đề “Nếu là người hãy là người cộng sản!” của TS. Nguyễn Trung Dũng và NCS. Cao Thị Phương. KỲ 1: NHỮNG CHUẨN MỰC KHÔNG BAO GIỜ CŨ Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch để thực sự vững mạnh, thực sự là Đảng chân chính cách mạng theo học thuyết đảng kiểu mới của V.I. Lê-nin. Người yêu cầu Đảng Cộng sản Việt Nam phải là hiện thân của “danh dự và lương tâm của dân tộc”, “là đạo đức, là văn minh”.
Ngay từ sớm, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã cho rằng, những giá trị đạo đức của giai cấp vô sản sẽ hình thành nên đạo đức của xã hội tương lai, đó là đạo đức cộng sản, một kiểu đạo đức mang tính nhân văn, nhân đạo nhất trong lịch sử phát triển của nhân loại. Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăng-ghen chỉ rõ: "Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, tư tưởng đạo đức thống trị chính là tư tưởng đạo đức của giai cấp thống trị. Theo đó, cơ sở hình thành đạo đức là nền tảng kinh tế - xã hội, gắn liền với quá trình giáo dục, rèn luyện đạo đức và hoạt động thực tiễn của con người. Nền tảng đó đóng vai trò to lớn đối với sự hình thành, phát triển của đạo đức mới - đạo đức cộng sản". Theo C.Mác, các hệ thống lý luận đạo đức của các giai cấp khác nhau trong xã hội thường biểu biện giá trị đạo đức của cả thời quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, lợi ích của giai cấp công nhân căn bản thống nhất với lợi ích của người lao động, và cũng từ đó, đạo đức và chính trị càng trở nên gắn bó mật thiết với nhau, đồng thời trở thành những yếu tố căn bản trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Dưới chế độ xã hội mới này, “chính trị là đức, chuyên môn là tài”, hai mặt đó luôn thống nhất với nhau trong nhân cách của người cách mạng. C.Mác cũng từng chỉ ra những điều kiện cần và đủ để Đảng Cộng sản có thể làm tròn nhiệm vụ của Đảng tiên phong là có “đầu não” và “trái tim”. “Đầu não” là trí tuệ, là triết học (phép biện chứng duy vật, sau này V.I.Lê-nin gọi là chủ nghĩa duy vật chiến đấu). “Trái tim” là nhiệt huyết, dũng cảm, đi đầu trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, bất công, tàn bạo; là lương tâm và trách nhiệm đối với quần chúng cần lao; là yêu thương con người và chống lại tất cả những cái xấu xa mất nhân tính.
Theo V.I Lê-nin, xây dựng Đảng về đạo đức và các yêu cầu chuẩn mực đạo đức của người đảng viên cộng sản luôn luôn luôn cấp bách và cần thiết. Chuẩn mực đạo đức chính là những yếu tố cấu thành của ý thức đạo đức, là những nguyên tắc, quy tắc đạo đức được mọi người thừa nhận trở thành mực thước, khuôn mẫu để xem xét, đánh giá và điều chỉnh hành vi con người trong xã hội. Trong diễn văn đọc tại Đại hội III toàn Nga của Đoàn Thanh niên cộng sản Nga (ngày 02-10-1920), V.I. Lê-nin không chỉ đưa ra quan niệm về đạo đức cộng sản, mà còn nói rõ về nguồn gốc, yêu cầu, mục đích, cơ sở của đạo đức cộng sản. Theo ông, “Đạo đức của chúng ta là từ những lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản mà ra”; “Đạo đức của chúng ta phải hoàn toàn phục tùng lợi ích đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản”; Đạo đức cộng sản “là đạo đức nhằm đoàn kết những người lao động chống mọi sự bóc lột, chống mọi chế độ tư hữu nhỏ”; “Cơ sở của đạo đức cộng sản là cuộc đấu tranh để củng cố và hoàn thành công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản”. Các chuẩn mực đạo đức của người đảng viên cộng sản được nói tới trong nhiều tác phẩm, bài viết, diễn văn, thư từ của V.I.Lê-nin được viết vào giai đoạn sau Cách mạng Tháng Mười có thể được khái quát thành các nhân tố như: Phẩm chất trung thành, trước hết là trung thành với Đảng, với cách mạng và sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động; tinh thần tự giác gánh vác nhiệm vụ gian khổ, hiểm nguy và hy sinh quên mình phục vụ chủ nghĩa cộng sản; giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; tận tâm, tận tụy, trách nhiệm với công việc; tinh thần gương mẫu, nêu gương, làm gương; khiêm tốn, cầu thị, không “kiêu ngạo cộng sản”, không tự phụ, không tự cao tự đại; thái độ khách quan, không thiên vị, không hẹp hòi, không có đầu óc bè phái, phường hội; không tham ô, hối lộ; tiết kiệm, tránh lãng phí; không ham địa vị, không lạm quyền, không đặc quyền, đặc lợi; trung thực, không che giấu sai lầm, khuyết điểm, dũng cảm nhận sai lầm, khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa; không quan liêu; tôn trọng, gần gũi, tin tưởng và phục vụ lợi ích của nhân dân...
Ngay từ trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, xuất phát từ bối cảnh phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản các nước trên thế giới phát triển mạnh mẽ, ngay trong tác phẩm Đường cách mệnh (năm 1927), người thanh niên Nguyễn Ái Quốc đã xác định rõ những chuẩn mực đạo đức của những người cách mạng và về tu dưỡng và rèn luyện đạo đức cách mạng. Tác phẩm được xem như đặt nền móng tư tưởng, lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930. Về “Tư cách một người cách mệnh”, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nêu ra 23 tiêu chuẩn, quy tụ trong 3 mối quan hệ cơ bản là: (I) Tự mình, có 14 tiêu chuẩn: “Cần kiệm. Hòa mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng tham muốn về vật chất. Bí mật”. (II) Đối với người, có 5 chuẩn mực: “Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người”. (III) Đối với công việc, có 4 tiêu chuẩn: “Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể”; đó là những phẩm chất cơ bản làm thành các giá trị về nhân cách của người cách mạng - Một mẫu người mới cần có trong phong trào cách mạng của dân tộc. Theo Người, chỉ có sự kết hợp thống nhất và nhuần nhuyễn giữa trí tuệ khoa học với đạo đức cách mạng và bản lĩnh chính trị của đảng cách mạng, của người cách mạng mới đủ sức tập hợp dân chúng thành lực lượng, mới giác ngộ và thức tỉnh dân chúng, đoàn kết họ, quy tụ họ thành phong trào theo đảng tiên phong, đưa cách mạng tới thành công. Sau khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra nghĩa vụ của đội ngũ cán bộ, đảng viên với quốc dân, đồng bào. Đây là tác phẩm tập hợp đầy đủ nhất những những tiêu chuẩn của người cán bộ cách mạng, người đảng viên cộng sản, về yêu cầu và chỉ dẫn đối với hoạt động của chính quyền cách mạng, là sự cảnh báo về những thói hư, tật xấu mà người cán bộ, đảng viên hay mắc phải, để từ đó đề ra biện pháp phòng, chống những thói hư, tật xấu đó. Những lời căn dặn, nhắc nhở của Người giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, thấy rõ những tiêu chí cần phải kiên trì tu dưỡng, rèn luyện, nỗ lực phấn đấu để xứng đáng với sự mong đợi, kỳ vọng của quần chúng nhân dân, với nhiệm vụ do Đảng giao phó, xứng với danh hiệu đảng viên cộng sản. Kế tiếp đó, khi đất nước bước vào những giai đoạn cách mạng quan trọng, vấn đề đạo đức cách mạng tiếp tục được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập một cách sâu sắc, đặc biệt trong vấn đề việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người có viết 2 tác phẩm riêng về Đạo đức cách mạng (1955 và 1958), trong đó tác phẩm "Đạo đức cách mạng", đăng trên Tạp chí Học tập, số 12 năm 1958 dưới bút danh Trần Lực được coi là tác phẩm tập trung đầy đủ nhất những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm và nghĩa vụ của người cán bộ, đảng viên với sự nghiệp của Đảng và Nhân dân: “Chúng ta, tất cả đảng viên, đoàn viên, tất cả cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng cần phải quyết tâm suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ Nhân dân. Đó là phẩm chất cao quý của người cách mạng, đó là đạo đức cách mạng, đó là tính Đảng, tính giai cấp, nó bảo đảm cho sự thắng lợi của Đảng, của giai cấp, của Nhân dân”. Theo Người: "Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". Một trong những lời di huấn của Người đối với công tác giáo dục lý tưởng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên được kết tinh trong bài viết “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (3-2-1969). Người nhấn mạnh: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của Nhân dân lên trên hết, trước hết”. Nửa thế kỷ sau khi ra đời, những lời dặn của Người trong tác phẩm vẫn vẹn nguyên giá trị đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn của Đảng ta hiện nay.
Đối với vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”; “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Theo Người, người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ vững đạo đức cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính. Đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân. Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không. Đề cập việc xây dựng được đạo đức cách mạng, Người cũng chỉ rõ: “Ta xây dựng con người cũng phải có ý định rõ ràng như nhà kiến trúc”, tức là phải xác định rõ ràng về tiêu chí, chuẩn mực. Chuẩn mực đạo đức cách mạng của đảng viên thực chất là các giá trị đạo đức cộng sản được cụ thể hóa vào thực tiễn Việt Nam và trở thành cái để phân biệt người đảng viên với đông đảo quần chúng. Việc xác định các chuẩn mực đạo đức cách mạng là vấn đề đặc biệt quan trọng bởi đó chính là hình mẫu con người đại diện cho lý tưởng cộng sản, cho chế độ tốt đẹp mà Đảng ta xây dựng. Theo đó, với tư duy biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh xem xét các chuẩn mực đạo đức trong các mối quan hệ lớn: với Tổ quốc và Nhân dân thì phải trung - hiếu; với con người thì phải yêu thương, với tự mình thì phải cần, kiệm, liêm, chính; với công việc thì phải chí công vô tư; với nhân loại thì phải có tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung... Có thể tóm gọn những chuẩn mực đạo đức cách mạng theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh gồm những nội dung cơ bản sau: Một là, trung với nước, hiếu với dân, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Trung là trung với nước, là trung thành với lợi ích của quốc gia, dân tộc, với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Ðảng, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa... Nước là của dân, của toàn dân tộc chứ không phải của riêng ai. Về chữ hiếu, theo Hồ Chí Minh, hiếu với dân không phải chỉ là hiếu với cha mẹ mình như người xưa vẫn nói, mà là hiếu với nhân dân, với toàn dân tộc, vì "nước lấy dân làm gốc", dân là "gốc" của nước.
Ngay từ những ngày đầu cách mạng, khi mở lớp huấn luyện, đào tạo lớp cán bộ đầu tiên của Ðảng (ở Quảng Châu, Trung Quốc), một trong những vấn đề đầu tiên đồng chí Nguyễn Ái Quốc quan tâm là, đào tạo những người tự nguyện hy sinh phấn đấu suốt đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; học tập, tìm hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là để "giữ chủ nghĩa cho vững", tuyệt đối trung thành với sự nghiệp lớn của Ðảng, biết đoàn kết và tổ chức quần chúng thực hiện. Sau này, ngay từ chính Bản Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng cũng do Người trực tiếp soạn thảo, cùng với thư kêu gọi các tầng lớp dân chúng ủng hộ Đảng, làm cách mạng giải phóng do Đảng lãnh đạo, đã đặt cơ sở cho việc hình thành, phát triển chính sách dân tộc của Đảng và giải quyết vấn đề dân tộc theo lập trường mác-xít. Mà trong đó, theo Người, truyền thống yêu nước đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến thái độ chính trị không chỉ của giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc mà còn của đa số trí thức và nhiều người thuộc tầng lớp trên. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người nhấn mạnh: “Đảng không phải là tổ chức để làm quan, phát tài, mà là để phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc; vì thế, đảng viên phải luôn rèn luyện, phấn đấu, luôn sẵn sàng hy sinh, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng”. Trung với nước, hiếu với dân theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện trong mọi công việc cách mạng của Ðảng, trong từng suy nghĩ, việc làm cụ thể của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân. Người khẳng định: “Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Chỉ dẫn đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị, đạo đức cho mỗi người Việt Nam, không chỉ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, mà còn lâu dài mãi mãi về sau. Hai là, tình yêu thương con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định tình yêu thương con người là một phẩm chất cao đẹp nhất trong tình cảm đạo đức của loài người. Cũng chính tình yêu thương con người đã làm nên một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp, làm nên giá trị vô giá về nhân cách, phẩm giá, chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình yêu thương đối với đồng bào, với Nhân dân, với những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Vì vậy, phải hết lòng giúp dân, giúp nước để đem lại tự do, hạnh phúc cho Nhân dân. Ngay từ 5 điều Bác Hồ dạy thiếu nhi Việt Nam, điều đầu tiên đã được nhấn mạnh “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào”. Tình thương yêu con người của Bác còn dành cho cả những người lầm đường, lạc lối… Tình yêu thương con người của Bác không phân biệt miền xuôi hay miền ngược, già hay trẻ, gái hay trai... Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Những người cách mạng là những người giàu tình cảm nhất và vì giàu tình cảm mới đi làm cách mạng để giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến, mang lại hạnh phúc cho con người, trước hết là những con người cùng khổ”. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến tình yêu thương con người. Ngoài tình yêu quê hương, đất nước, yêu Nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhắc nhở mỗi cán bộ đảng viên về tình đồng chí, đồng đội. Tình đồng chí là tình cảm thiêng liêng, cao quý của những người cùng chung mục tiêu, lý tưởng cộng sản, sợi dây thắt chặt sự đoàn kết, gắn bó giữa các đảng viên trong một tổ chức, đơn vị, rộng hơn là sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, trở thành truyền thống tốt đẹp của Đảng ta. Ngay trước khi từ biệt cõi đời, trong Di chúc thiêng liêng để lại cho muôn đời sau, Người căn dặn Đảng: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
Ba là, Dĩ công vi thượng, tức người cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích chung lên trên hết, tất cả vì nước vì dân, đặt lợi ích của dân, của nước, của Ðảng lên trên hết, đem lòng chí công vô tư mà đối xử với người, với việc, không mảy may có chút chủ nghĩa cá nhân. Người quan niệm cái gì có lợi cho Nhân dân, cho dân tộc là chân lý và Người xem phục vụ Nhân dân là phục vụ chân lý, làm công bộc cho Nhân dân là một việc làm cao thượng. Thực chất “Dĩ công vi thượng” là câu nói của Bác đối với Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong một đêm tối lạnh lẽo tại hang Pắc Pó năm 1941. Tuy nhiên, nó lại là một trong những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh mà ở đó bản thân Người là tấm gương mẫu mực nhất. Sau 30 năm bôn ba cho đến khi làm Chủ tịch nước và đến lúc về với Các Mác, Lê-nin, Bác Hồ chỉ về thăm quê hương, thăm ngôi nhà nơi mình sinh ra có hai lần. Tháng 4-1949, Người viết thư nói không phải vô tình với quê hương mà là trong lúc cả nước đuổi giặc Pháp thì bổn phận mỗi người là “vì nước quên nhà, vì công quên tư”. Khi Chiến dịch Biên giới bước vào giai đoạn quyết định, anh cả của Bác - ông Nguyễn Sinh Khiêm qua đời. Bác không thể về nên đã gửi bức điện tới họ Nguyễn Sinh nói hoàn cảnh, tâm trạng xin chịu tội “bất đễ”. Những dòng chữ ấy vừa thật đậm tình người, vừa cho thấy tinh thần hy sinh cao cả của vị Chủ tịch nước vì việc chung phải nén tình riêng. Ngay trong phần Đạo đức cách mạng của tác phẩm “Sửa đổi llối làm việc”, Người viết: “Người đảng viên, người cán bộ muốn trở nên người cán bộ chân chính không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn là do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm ngày càng ít mà những tính tốt ngày càng thêm”.
Ngoài chí công vô tư, một trong những chuẩn mực đạo đức được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến nhiều nhất trong vấn đề công tác và sinh hoạt hằng ngày chính là cần, kiệm, liêm, chính. Người đặt "cần" lên đầu tiên vì cần cù lao động chính là nguồn gốc của văn minh và xã hội loài người. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không chỉ là siêng năng, lao động cần cù mà phải đi liền với sáng tạo để lao động có năng suất, hiệu quả cao. “Kiệm” là tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, vì nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to. “Liêm” tức là luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc nào của Nhà nước, của Nhân dân; phải trong sạch, không tham lam, không tham địa vị, không ham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình, nhờ đó mà quang minh, chính đại, không bao giờ hủ hóa. “Chính” nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn, “là việc phải thì dù nhỏ cũng làm, việc trái thì dù nhỏ cũng tránh”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông/Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc/Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính/Thiếu một mùa, thì không thành trời/Thiếu một phương, thì không thành đất/Thiếu một đức, thì không thành người”.
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng một câu thơ “Quan sơn muôn dặm một nhà/Bốn phương vô sản đều là anh em!, là tinh thần đoàn kết giữa những người cộng sản với các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động trên thế giới mà Người đã dày công vun đắp bằng thực tiễn hoạt động cách mạng của mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Theo Người, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước: "Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hòa bình thế giới". Nếu tinh thần yêu nước không chân chính và tinh thần quốc tế không trong sáng có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền, kỳ thị chủng tộc...". Với người cách mạng, chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong sáng phải hòa quyện làm một. Vì thế, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại!". Đó cũng là tinh thần đoàn kết, hợp tác và hữu nghị của nhân dân Việt Nam với tất cả nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, vì mục tiêu hòa bình, công lý, tiến bộ xã hội và độc lập dân tộc. Từ chủ nghĩa quốc tế trong sáng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và xây dựng nên tình đoàn kết quốc tế rộng lớn của nhân dân Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, góp phần vào những thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới.
Nguồn: Trung ương Đoàn
Số lần đọc: 386
|
Tin liên quan
|