• 1
  • 3
Tỉnh đoàn Kiên Giang - Diễn đàn của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội LHTN Việt Nam, Đội TNTP HCM tỉnh Kiên Giang
Các đơn vị tài trợ website
Liên kết website

Ngày 1 tháng 9 năm 1939, phát-xít Đức tiến công Ba Lan. Ngày 3 tháng 9 năm 1939, Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ đã ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình mọi mặt ở Đông Dương và Việt Nam.

Để phục vụ cho chiến tranh, thực dân Pháp ở Đông Dương ban bố lệnh tổng động viên, ra sức cướp của, tăng giờ làm việc, giảm tiền lương của công nhân và bắt thanh niên đi lính. Chúng thẳng tay đàn áp, khủng bố các phong trào cách mạng. Các quyền tự do, dân chủ mà thanh niên và nhân dân ta giành được trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ đều bị xoá bỏ. Các tổ chức của công nhân và thanh niên đều bị chúng giải tán. Chúng ra sức bắt bớ, truy lùng những chiến sỹ cộng sản.

Ngày 29/9/1939, Trung ương Đảng ta ra: “Thông cáo cho các đồng chí các cấp bộ” giải thích tình hình thế giới và tình hình trong nước, đồng thời đề ra một số chủ trương ứng phó trước mắt.

Tháng 11/1939, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) có các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần vv… tham dự. Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh giải phóng là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương “Bước đường sinh tồn của dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng”. Hội nghị chủ trương lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các giai cấp và dân tộc ở Đông Dương để đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai của chúng.

Theo chủ trương của Đảng, Đoàn Thanh niên Phản đế tiếp nối sự nghiệp vẻ vang của các tổ chức thanh niên cộng sản và thanh niên dân chủ trước đây. Những đoàn viên Thanh niên Dân chủ chuyển thành đoàn viên Thanh niên Phản đế, các hội viên thanh niên trong các tổ chức thanh niên phổ thông được giao những công tác thích hợp để thử thách, bồi dưỡng. Để nhanh chóng hình thành đội quân xung kích và đội hậu bị của Đảng, các đồng chí lãnh đạo Đảng ta đã trực tiếp giúp đỡ Đoàn xây dựng tổ chức. Nhiều cơ sở Đoàn đã được phát triển ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Sơn Tây, Quảng Trị và nhiều tỉnh ở Nam Bộ. ở các thành phố, Đoàn chú trọng công tác vận động thanh niên công nhân và học sinh.

Để mở rộng các hình thức tập hợp thanh niên sau khi phong trào dân chủ bị địch đàn áp, tại Sài Gòn, những Câu lạc bộ Học sinh được hình thành, đầu tiên là ở trường Trung học Trương Vĩnh Ký do Huỳnh Văn Tiểng đứng đầu. Tiếp đến là sự ra đời của tổ chức tham quan và du lịch do các anh Trịnh Kim ảnh, Nguyễn Văn ảnh, Võ Thế Quang... phụ trách. Hoạt động tham quan, du lịch thu hút nhiều bạn trẻ tham gia. Qua hoạt động này, anh chị em được tuyên truyền, giác ngộ cách mạng và nhiều người đã đứng vào các tổ chức bí mật do Đảng ta lãnh đạo hăng hái đấu tranh chống địch. ở Hà Nội, mặc dù bị địch ra sức khủng bố, cơ sở Đoàn Thanh niên Phản đế vẫn phát triển khá nhanh, Đoàn xuất bản tờ báo Tiền phong không những chỉ lưu hành ở Hà Nội mà còn lưu hành trong nhiều tỉnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Hoạt động của Thanh niên Phản đế Hà Nội khá phong phú. Nhiều đoàn viên và thanh niên đã tham gia rải truyền đơn kêu gọi chống chiến tranh đế quốc, bảo vệ Liên Xô, chống đàn áp khủng bố nhân dân…

Anh Nguyễn Lam là một trong những cán bộ Thanh niên Phản đế hoạt động rất tích cực. Bị địch bắt giam tại Hoả Lò, anh cùng hai đồng chí đoàn viên khác đã bí mật, kiên trì đào được một đường hầm từ nơi bị giam nối liền với cống thoát nước. Trong một đêm mưa bão, anh đã cùng các đồng chí vượt ngục thành công trở về hoạt động trong đội ngũ của Đoàn.

Tháng 6/1940, nước Pháp bị quân đội pháp xít Hitle chiếm đóng. Nhân cơ hội này, tháng 9/1940, pháp xít Nhật xâm lược Đông Dương. Thực dân Pháp nhanh chóng đầu hàng quân Nhật. Từ đây nhân dân Việt Nam bị hai kẻ thù cùng thống trị là phát xít Nhật và thực dân Pháp. Nhưng nhân dân Việt Nam bất khuất nổi dậy chống cả Nhật lẫn Pháp. Tháng 9/1940, nhân dân châu Bắc Sơn vùng lên khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương. Tháng 11/1940 dưới sự lãnh đạo của Xứ uỷ Nam Kỳ, nhân dân ở nhiều tỉnh Nam Bộ cũng đã vùng lên đấu tranh quyết liệt chống quân thù. Tháng 1/1941, nổ ra cuộc nổi dậy của anh em binh lính ở đồn Chợ Rạng và đồn Đô Lương (Nghệ An). Các cuộc khởi nghĩa này là bước đầu đấu tranh vũ trang của cả dân tộc Việt Nam, báo hiệu một thời kỳ mới, thời kỳ chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang để giành chính quyền trong toàn quốc.

Theo chủ trương của Đảng, lực lượng vũ trang khởi nghĩa Bắc Sơn được chuyển vào rừng hoạt động du kích. Mùa xuân năm 1941, tại khu rừng Khuổi Nọi (xã Vũ Lê, châu Bắc Sơn) đội du kích Bắc Sơn được thành lập. Đội gồm hơn 30 chiến sĩ mà hầu hết là đảng viên trẻ và đoàn viên, tất cả đều đã tham gia khởi nghĩa Bắc Sơn và chiến đấu chống sự đàn áp khủng bố của quân thù ngay từ đầu. Trong buổi lễ thành lập, trước đông đảo đồng bào địa phương đến tham dự, đồng chí Hoàng Văn Thụ thay mặt Trung ương Đảng giao nhiệm vụ giết giặc cứu nước cho đơn vị.

ít lâu sau, đội du kích đổi tên là Cứu quốc quân do đồng chí Phùng Chí Kiên, Uỷ viên Trung ương Đảng làm Chỉ huy trưởng Cứu quốc quân. Tuy lực lượng còn nhỏ bé, súng đạn và lương thực thiếu thốn, nhưng đã luôn giữ vững chí khí chiến đấu ngoan cường.

Ngày 23 tháng 11 năm 1940, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ mặc dù đã có lệnh hoãn của Trung ương Đảng nhưng không truyền đạt kịp. ở hầu khắp các tỉnh miền Nam nhất là ở Mỹ Tho, quần chúng nổi dậy chiến đấu rất dũng cảm. Chính quyền của địch ở một số xã và quận hoang mang, tan rã. Đội viên các đội tự vệ và du kích trong cuộc khởi nghĩa hầu hết là trẻ tuổi. Họ hăng hái chiến đấu chống địch bằng vũ khí thô sơ. Trong trận đánh quân tiếp viện của quân địch từ Tây Ninh đến ứng cứu cho quân lỵ Hóc Môn bị quân khởi nghĩa vây hãm, du kích đã bắn chết một tên thực dân ác ôn cùng nhiều lích địch ở Cầu Bông. ở Mỹ Tho, các đội tự vệ cùng nhân dân phá tan bộ máy chính quyền của địch ở 54 trong tổng số 57 xã thuộc hai huyện Châu Thành và Cai Lậy. ở những xã này, các tổ chức Đảng và quân khởi nghĩa đã tịch thu các kho thóc của bọn địa chủ chia cho dân nghèo. Cũng tại Mỹ Tho, lần đầu tiên xuất hiện lá cờ đỏ sao vàng sau này trở thành lá cờ của Mặt trận Việt Minh, quốc kỳ cứu nước của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam sau Đại thắng Mùa xuân năm 1975.

Trong ngày thành lập chính quyền đầu tiên của tỉnh, hai đội tự vệ gồm toàn đoàn viên và thanh niên đã giơ tay xin thề dưới lá cờ đỏ sao vàng quyết chiến đấu bảo vệ chính quyền và cách mạng.

Tại Vĩnh Long, một đội du kích gồm 50 chiến sĩ rất trẻ dưới sự chỉ huy của đồng chí Hồng, một chiến sĩ cách mạng 24 tuổi, Bí thư Quận uỷ Vũng Liêm đã đánh chiếm và làm chủ quận lỵ một số ngày.

ở đảo Hòn Khoai, dưới sự chỉ huy của chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi Phan Ngọc Hiển, quân khởi nghĩa hầu hết là đoàn viên, thanh niên đồng loạt tiến công tiêu diệt tên thực dân chủ đảo thu toàn bộ điện đài, vũ khí và kéo cờ đỏ sao vàng, cờ đỏ búa liềm cùng tấm băng lớn mang dòng chữ: “Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế muôn năm”. Quân khởi nghĩa dùng thuyền đã được chuẩn bị trước thẳng tiến về đất liền.
Tuổi trẻ và nhân dân Rạch Gốc tập hợp đông đảo trên bến hân hoan đón mừng quân khởi nghĩa chiến thắng cập bến lúc mặt trời vừa ửng đỏ.

Tuy nhiên, lúc này cuộc khởi nghĩa trên đất liền vừa bị địch dập tắt. Quân khởi nghĩa Hòn Khoai phải đơn độc chiến đấu quyết liệt với kẻ thù đông gấp nhiều lần. Sau mười ngày cầm cự vô cùng anh dũng, quân khởi nghĩa Hòn Khoai chẳng may lọt vào trận địa phục kích của địch.

Thực dân Pháp đã đàn áp cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ hết sức dã man. Gần 6000 người bị bắt và bị giết, nhiều làng bị ném bom và đốt phá. Người nữ chỉ huy trẻ tuổi Nguyễn Thị Bảy đã làm cho quân thù khiếp sợ và khâm phục. Chúng gọi chị là “Hoàng hậu đỏ”. Nhục hình, tra tấn dã man không khuất phục được chị. Chị quát thẳng vào mặt kẻ thù: “Chúng bay chỉ có thể lấy máu của người cộng sản chứ không thể lấy được một lời cung khai phản bội”.

Tháng 12 năm 1941, kẻ thù đã đưa các chiến sĩ trẻ tuổi tham gia khởi nghĩa ở Hòn Khoai gồm có Phan Ngọc Hiển, Đỗ Văn Sến, Nguyễn Văn Đắc, Nguyễn Văn Cự, Đỗ Văn Biên, Ngô Văn Cẩn, Ngô Kim Luân, Nguyễn Văn Đình… cùng hai đồng chí lãnh đạo của Đảng bộ Cà Mau là Quách Văn Phàn, Lê Văn Khuyên ra hành quyết tại sân vận động thị xã.

Trước lúc hi sinh, các đồng chí đã đồng loạt hô to:
Đả đảo đế quốc Pháp!
Việt Nam độc lập muôn năm
Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!

Khởi nghĩa Nam Kỳ là một trong những trang chói lọi chủ nghĩa anh hùng cách mạng của tuổi trẻ và nhân dân Việt Nam, là tiếng kèn xung trận vang vọng núi sông từ Nam ra Bắc dưới ngọn cờ cách mạng.

Tháng 11/1940, Hội nghị lần thứ 7 Trung ương Đảng họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh) có đồng chí Trường Chinh, Phan Đăng Lưu, Hoàng Văn Thụ... tham dự Hội nghị đã phân tích tình hình chiến tranh thế giới lần thứ 2 và tác động của chiến tranh đối với Đông Dương. Hội nghị đã đi đến sự dự đoán rất sáng suốt: “Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành quyền tự do, độc lập”.

Bước sang năm 1941, tình hình thế giới và trong nước diễn biến ngày một khẩn trương và phức tạp.
Từ khi quân đội Nhật vào Đông Dương, mâu thuẫn giữa Nhật và Pháp ngày càng sâu sắc, tuy phải tạm thời thoả hiệp với nhau nhưng cả hai đều tìm cách triển khai thế lực đợi thời cơ tiêu diệt nhau. Nhân dân Đông Dương chịu cảnh “một cổ hai tròng”, dưới ách thống trị tàn bạo của Nhật – Pháp nên ngày một bần cùng, đói khổ… do vậy, ngày càng nhanh chóng giác ngộ cách mạng.

Ngày 28/1/1941, Nguyễn ái Quốc, lãnh tụ của Đảng và dân tộc đã bí mật về nước ở vùng Pác Pó để trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam.

Đây là một sự kiện hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta. Nguyễn ái Quốc đã bắt tay vào việc xây dựng căn cứ địa, tổ chức đoàn thể Cứu quốc và chuẩn bị Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Tháng 5/1941, Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng họp tại Pác Bó (Cao Bằng) do đồng chí Nguyễn ái Quốc, đại diện của Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì. Tham gia Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Hoàng Quốc Việt…

Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc tình hình trong nước và thế giới, Hội nghị xác định: Cuộc cách mạng trước mắt là cách mạng giải phóng dân tộc, các lực lượng cách mạng của dân tộc cần tập trung mũi nhọn vào bọn phát xít xâm lược Pháp – Nhật, bởi vì: “Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp trâu ngựa, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại đựơc”.

Để tập hợp và động viên các tầng lớp nhân dân đứng lên đánh đuổi phát xít Nhật – Pháp, Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt làViệt Minh) và các Hội Cứu quốc, trong đó có Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam.

Như vậy, Đoàn Thanh niên Cứu quốc (TNCQ) là một tổ chức của những thanh niên yêu nước có nhiệm vụ tham gia vào cuộc đấu tranh của dân tộc, đánh Pháp đuổi Nhật. Đoàn TNCQ tiếp nối sự nghiệp của các tổ chức thanh niên do Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn ái Quốc sáng lập, lãnh đạo trước đó. Đoàn là hạt nhân đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng thanh niên vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.

Từ khi ra đi tìm đường cứu nước cho đến lúc trở về Tổ quốc, Nguyễn ái Quốc luôn quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng những lớp thanh niên cách mạng.

Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 và tư tưởng của Người, công tác vận động thanh niên đã có bước phát triển mới. Được các cấp uỷ Đảng quan tâm chỉ đạo, nhiều cơ sở Đoàn và các Hội quần chúng của thanh niên được khôi phục và xây dựng. Ban Chấp hành Huyện Đoàn Thanh niên Cứu quốc đầu tiên ở vùng núi được thành lập tại Hà Quảng do đồng chí Đàm Minh Viễn làm Bí thư.

Cuối năm 1941, Ban Chấp hành Thành Đoàn Thanh niên Cứu quốc Hà Nội được thành lập gồm 5 người trong đó có Nguyễn Lam, Nguyễn Khang… tạo ra sự chỉ đạo thống nhất trong phong trào thanh niên. Thành Đoàn đã cho in lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc và truyền đơn của Mặt trận Việt Minh phổ biến trong thành phố. Từ cuối năm 1942 trở đi, nhiều cơ sở Đoàn được xây dựng ở nông thôn, nhất là ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn… Đội Nhi đồng Cứu quốc ra đời ở Nà Mạ (Cao Bằng). Nhiều đội viên đã được già Thu tức Bác Hồ kính yêu chăm sóc, giáo dục và một số đội viên đã giúp việc giao liên cho già Thu. Trong thời gian này, anh Kim Đồng là người đội viên thiếu niên đầu tiên đã nêu cao tinh thần hi sinh anh dũng khi làm nhiệm vụ.

Ở Nam Bộ, sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, đế quốc Pháp đàn áp đẫm máu phong trào cách mạng, nhưng cơ sở của Đoàn vẫn được duy trì. Khi có Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 8, nhiều cơ sở mới lại được xây dựng tại các nhà máy, trường học, nhất là các vùng nông thôn. Tại một số địa phương, hệ thống tổ chức của Đoàn Thanh niên Cứu quốc đã thống nhất đến huyện, có nơi đến tỉnh.

Song song với công tác xây dựng và phát triển tổ chức, Đoàn đã tập hợp đông đảo các tầng lớp thanh niên tham gia nhiều hình thức hoạt động văn hoá xã hội... động viên họ tích cực thực hiện các nhiệm vụ của Mặt trận Việt Minh, đóng góp xứng đáng vào cao trào cứu nước.

Ở Hà Nội, từ tháng 10 đến tháng 12/1941, đoàn viên và thanh niên đã có những hoạt động gây ảnh hưởng sâu rộng theo lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc. Thành Đoàn tổ chức được một cơ sở in bí mật đặt tại phố Hàng Nón. Theo thống kê của Sở mật thám Pháp, chỉ trong tháng 12/1941 có 13 vụ rải truyền đơn và treo cờ đỏ trong thành phố.

Hà Nội là trung tâm các trường đại học của cả Đông Dương nên công tác vận động sinh viên luôn được chú trọng. Đoàn TNCQ tiếp nối truyền thống của Đoàn Thanh niên Phản đế với sứ mệnh lịch sử mới là đoàn kết, tập hợp mọi tầng lớp thanh niên đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đoàn đã chú trọng đẩy mạnh công tác vận động giới học sinh, sinh viên bằng nhiều hình thức. Được sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng, cuộc vận động hình thành Tổng Hội Sinh viên hoạt động công khai chịu ảnh hưởng trực tiếp của Đảng được tiếp tục xúc tiến nhằm liên kết lực lượng sinh viên yêu nước, có cảm tình với cách mạng ở các trường cao đẳng, đại học trong cả nước, đặc biệt là ở Hà Nội. Các đồng chí lãnh đạo Đảng ta đã tiếp xúc trực tiếp với một số trí thức yêu nước có uy tín và một số sinh viên có nhiệt tâm để hình thành nên một Ban Trị sự lâm thời của Tổng Hội do anh Dương Đức Hiền làm Hội trưởng niên khoá 1941–1942. Anh Dương Đức Hiền đã đỗ Cử nhân luật niên khoá trước đó. Trong Ban Trị sự còn có các sinh viên Đặng Ngọc Tốt, Phan Mỹ, Vũ Văn Cẩn, Nguyễn Ngọc Minh vv… Ban Trị sự được sự tín nhiệm của đông đảo sinh viên, mặc dầu lúc này ngoài sinh viên của ba miền Bắc, Trung, Nam còn có sinh viên Ai Lao, Cao Miên và cả sinh viên Pháp.

Việc làm đầu tiên của Tổng Hội là xây dựng khối đoàn kết trong sinh viên, chống lại mọi âm mưu chia rẽ của kẻ thù, khơi dậy lòng yêu nước, thương nòi của đông đảo sinh viên, đưa họ tham gia vào các hoạt động hữu ích. Khẩu hiệu của Tổng Hội đưa ra là “Đoàn kết để phụng sự quốc gia, tin tưởng vào tương lai đất nước, truyền lòng tin đến mọi người”.

Tổng Hội đã lập ra một Ban Vệ sinh và Ban Y học để giúp đồng bào hiểu biết về vệ sinh, phòng bệnh, chữa bệnh chống lại các hiện tượng mê tín, dị đoan được bà con thôn xóm ngoại thành Hà Nội và các tỉnh lân cận rất hoan nghênh. Ngoài ra Tổng Hội cũng lập một số ban cố vấn về luật để giúp đồng bào mỗi khi có oan ức cần đấu tranh trong quan hệ với giai cấp thống trị… Giám đốc Nha học chính Đông Dương đã cảm nhận thấy điều đó trong hoạt động của sinh viên nên ra lệnh phải ghi vào bản Điều lệ của Tổng Hội câu đầu tiên là “Tổng Hội không được phép bàn cãi về chính trị và tôn giáo”. Cuộc đấu tranh giữa những người lãnh đạo yêu nước của Tổng Hội và tên Giám đốc (Tabule) đã diễn ra gay gắt nhưng ta kiên quyết không chịu ghi câu đó vào Điều lệ dù Tổng Hội phải bị giải tán.

Từ năm học 1942 – 1943, anh Dương Đức Hiền được bầu làm Hội trưởng của Tổng Hội. Anh được may mắn nhận ý kiến chỉ đạo trực tiếp của các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng ta, trong đó có ý kiến của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh. Lúc này việc giáo dục tinh thần yêu nước, rèn luyện phẩm chất, rèn luyện thân thể cho sinh viên được chú trọng. Lần đầu tiên, tại khu Đông Dương học xá, Tổng Hội đã tổ chức trọng thể lễ giỗ Tổ Hùng Vương. Các sinh viên ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam cùng nhau thắp nén hương trầm thơm ngát và uy nghiêm để hướng về với cội nguồn của dân tộc, thề giữ tròn khí phách của giống nòi. Sau đó, cứ hàng tháng sinh viên các t

Số lần đọc: 1775

Tin liên quan